1. Kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn có thật sự an toàn
Thế giới đã và đang phải hứng chịu 3 thảm họa có quy mô chưa từng có: đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu và cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, để lại những hậu quả to lớn, nhiều mặt không chỉ cho thế hệ hiện tại mà còn cho cả thế hệ tương lai. Do đó, phát triển một “nền kinh tế xanh” (KTX) kinh tế tuần hoàn (KTTH) là xu hướng tất yếu.
Hiện nay, Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực khai thác tiềm năng và đẩy nhanh việc thực hiện các kế hoạch, chiến lược nhằm đạt được tăng trưởng kinh tế đồng thời duy trì tính bền vững về môi trường. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2050 và Quyết định số 687/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn của Việt Nam. Trong hơn 10 năm phát triển và thực hiện KTX, dưới sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và sự nhận thức về tầm quan trọng của KTX của các thành phần xã hội, kinh tế Việt Nam đến nay đã có những bước phát triển đột phá, như: ngày càng có nhiều hành động thiết thực hỗ trợ phát triển nền KTX; đời sống người dân không ngừng được nâng cao.
Tuy nhiên, theo ILO, để một công việc xanh hoặc bất kỳ công việc nào khác được coi là bền vững, nó phải đáp ứng một số yêu cầu cần thiết, bao gồm điều kiện làm việc phù hợp, bảo vệ sức khỏe và an toàn của người lao động (NLĐ).
Trước tiên cần xác định và giải quyết các nguy cơ và rủi ro nghề nghiệp cho NLĐ liên quan đến đổi mới công nghệ và những thay đổi trong các quy trình sản xuất “xanh” hoặc “xanh hơn” và trong toàn bộ chuỗi cung ứng.
Ngược lại với các “cuộc cách mạng” khác, quá trình chuyển đổi sang nền KTX không thể thuần túy mang tính công nghệ và kinh tế. Nâng cao phúc lợi của người dân phải là một phần tất yếu để đạt được sự phát triển bền vững. Tức là phải đảm bảo ngay từ đầu rằng tất cả công việc, không chỉ việc làm xanh, đều đảm bảo ATVSLĐ cho NLĐ đồng thời mang lại lợi ích cho cộng đồng và môi trường. Việc áp dụng các công nghệ “xanh” mới và “xanh hóa” công nghệ trong các lĩnh vực truyền thống, như khai thác mỏ hoặc xây dựng, mang đến cơ hội chưa từng có để cải thiện ATVSLĐ cho NLĐ tại nơi làm việc.
Chúng ta thường liên tưởng từ ‘xanh’ với sự an toàn, nhưng những gì tốt cho môi trường không hẳn đã tốt cho sự an toàn và sức khỏe của NLĐ làm việc trong nền KTX. Trong một số trường hợp, trong nền KTX và KTTH, NLĐ gặp nhiều rủi ro hơn. Ví dụ, việc giảm lượng chất thải ở các bãi chôn lấp đã dẫn đến tỷ lệ tai nạn và bệnh tật cao hơn ở những nơi NLĐ có nhiệm vụ xử lý, phân loại nó.
2. Các nguy cơ rủi ro an toàn vệ sinh lao động trong nền kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn
Trong KTX, NLĐ ngoài việc phải tiếp xúc với những rủi ro truyền thống đã biết ở nơi làm việc (rủi ro vật lý, hóa học, gánh nặng lao động v.v.), có thể sẽ phải đối mặt với những mối nguy hiểm mới liên quan đến việc áp dụng các công nghệ mới (ví dụ: công nghệ nano, công nghệ sinh học, AI,..), các hóa chất mới, nhất là các nguyên tố hiếm sử dụng trong công nghệ tự động và các mô hình tổ chức công việc mới.
Áp dụng KTX và KTTHdo yêu cầu giảm tải cho môi trường và phát triển các quy trình thân thiện với môi trường, tuy nhiên lại dẫn đến các vấn đề mới về ATVSLĐ và đôi khi cũng nghiêm trọng.
Tái sử dụng chất thải như các sản phẩm điện tử là một quá trình rất phức tạp. Để có thể tái chế vật liệu, vật liệu phải càng tinh khiết càng tốt và điều này đôi khi đòi hỏi phải tháo dỡ thủ công, có thể dẫn đến việc tạo ra nơi làm việc có ecgonomi kém. Ngoài ra, việc tiếp xúc với các nguyên tố hiếm và các rủi ro liên quan đến việc tiếp xúc với các chất này cũng là vấn đề đối với sức khỏe NLĐ.
Trong nền KTX, việc sử dụng và khai thác năng lượng xanh là cần thiết, vừa thay thế cho các nguồn nhiên liệu hóa thạch đang dần cạn kiệt, vừa góp phần bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, bên cạnh đó, nó cũng mang lại cho NLĐ những rủi ro nghề nghiệp mới.
2.1. Nguy cơ rủi ro trong việc sản xuất năng lượng xanh
Trong nền KTX, để phát triển bền vững, không thể thiếu được việc phát triển nguồn năng lượng tái tạo, hay còn gọi là năng lượng xanh, là loại năng lượng được tạo ra từ các nguồn tài nguyên tự nhiên không giới hạn hoặc tái tạo được trong quá trình ngắn so với thời gian mà nó được sử dụng, như: điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối, thủy điện,…. Năng lượng xanh không chỉ giúp giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường so với các nguồn năng lượng truyền thống như than và dầu mỏ, mà còn giúp giảm thiểu sự phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên không tái tạo và giảm rủi ro của biến động giá năng lượng.
* Năng lượng gió: Việc sử dụng năng lượng xanh như điện gió góp phần bảo vệ môi trường tương đối lớn, nhưng lại gây ra một số tác hại nhỏ cho môi trường và con người, như: Các tua bin gió với tần số rung động thấp có thể làm rung các công trình cách xa đến 100m (có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng của cây trồng trong phạm vi 300m); mức độ ồn của tua bin gió (tiếng ồn cơ học và tiếng ồn khí động, ở khoảng cách 350m có độ ồn 35÷45dBA, ở gần trục cánh quạt của các tua bin gió công suất lớn, độ ồn có thể vượt 100dBA). Trong hoạt động bảo dưỡng, NLĐ có khả năng tiếp xúc với nhựa, styren và dung môi, khí, hơi và bụi độc hại hoặc các rủi ro vật lý liên quan đến việc xử lý thủ công trong quá trình sản xuất và bảo trì cánh quạt; nguy cơ ngã cao khi leo lên bên ngoài đỉnh tuabin gió, nguy cơ đau, mỏi cơ-xương-khớp khi sửa chữa bên trong hộp động cơ chật chội. Đối với quá trình lắp đặt, bụi và khói từ thủy tinh, chất làm cứng, bình xịt và cacbon có thể gây ra các vấn đề phổ biến liên quan đến sức khỏe bao gồm viêm da, chóng mặt, buồn ngủ, tổn thương gan và thận, phồng rộp, bỏng hóa chất và ảnh hưởng đến khả năng sinh sản; ngoài ra còn có nguy cơ có thể bị tác động ảnh hưởng của một số hợp chất hóa chất trong máy phát điện khi sửa chữa, bảo dưỡng (ví dụ chất neodym (Nd) khi khai thác tách từ đất hiếm để tạo hợp chất NdFeB dùng trong máy phát điện còn sót lại các chất phóng xạ uran và thorium có thể nguy hiểm đến sức khỏe NLĐ). Rủi ro về thể chất trong quá trình bảo trì bao gồm: ngã từ trên cao, rối loạn cơ xương do thao tác thủ công, khó chịu khi làm việc trong không gian hạn chế, nỗ lực thể chất trong quá trình vận hành nâng cột, điện giật, thương tích do tiếp xúc với các bộ phận chuyển động và vật rơi. Hơn nữa, NLĐ có thể tiếp xúc với lửa do thiết bị điện, vật liệu dễ cháy hoặc chất bôi trơn được sử dụng trong giai đoạn chế tạo tuabin.
* Năng lượng sinh học: Việc sử dụng nhiên liệu sinh học để sản xuất năng lượng trong nhà máy điện sinh khối cũng dẫn đến mức độ phơi nhiễm vi sinh vật cao, ví dụ: trong việc xử lý dăm gỗ, than bùn và rác thải sinh hoạt để đốt và sản xuất năng lượng. Vi sinh vật có thể gây ra các triệu chứng hô hấp và bệnh tật, như bệnh ODTS (hội chứng nhiễm độc bụi hữu cơ), gây ra tình trạng viêm phế nang trong phổi do quá mẫn cảm với bụi hữu cơ hít phải. Mặc dù được coi là một giải pháp thay thế thân thiện với môi trường, nhưng việc sản xuất điện từ sinh khối thải ra các chất gây ô nhiễm vào không khí, chẳng hạn như carbon dioxide, nitơ oxit, các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi,…; nhược điểm chính của năng lượng sinh khối xuất phát từ những lo ngại trong một số trường hợp, khí thải và chất gây ô nhiễm từ sinh khối có thể tồi tệ hơn so với từ các nguồn nhiên liệu hóa thạch. Do đó, những chất gây ô nhiễm này có tác động xấu đến môi trường và sức khỏe con người.
* Năng lượng mặt trời: Trong lĩnh vực điện mặt trời, trong quá trình sản xuất và lắp đặt các tấm pin điện, sức khỏe của NLĐ có thể bị ảnh hưởng xấu bởi nhiều loại hóa chất và vật liệu. Đặc biệt nguy hiểm trong sản xuất tế bào quang điện là các hóa chất ăn da như axit hydrocuoric (HF) được sử dụng để làm sạch các tấm silicon và khí silan (SiH4) cực kỳ dễ cháy và dễ nổ, các tế bào quang điện thế hệ mới, dựa trên camium Telluride, mối nguy hiểm chính cho NLĐ là độc tính và khả năng gây ung thư của cadmium. Trong quá trình lắp đặt, bảo trì và tháo dỡ, các mối nguy hiểm chính liên quan đến làm việc trên cao bao gồm: nguy cơ bị thương do trượt, vấp và té ngã, rối loạn cơ xương (MSD) cũng có thể xảy ra do sự gia tăng trong việc xử lý tải trọng và các rủi ro về ecgonomi. Các điều kiện thời tiết bất lợi như nhiệt độ khắc nghiệt làm tăng nguy cơ bị stress do gió hoặc nóng. Tiếp xúc với bức xạ mặt trời có thể dẫn đến bỏng nắng, rối loạn thị lực và một số loại ung thư.
2.2. Nguy cơ rủi ro trong sản xuất sạch hơn và tái chế rác thải
Để bảo vệ môi trường, khi xử lý nước thải, người ta loại bỏ dần trichloroethylene khỏi chất tẩy dầu mỡ, các hóa chất mới đã được đưa vào sử dụng. Một số trong số này có những đặc tính không lường trước được gây ra những rủi ro mới cho sức khỏe như limonene (một terpene có trong vỏ cam quýt) bị oxy hóa khi tiếp xúc với không khí và tạo thành các chất nhạy cảm hoặc ete glycol thuộc loại đã được chứng minh là có độc tính sinh sản. Ở Thụy Điển, các hóa chất thay thế này đã bị cấm do những rủi ro gây ra.
Do công nghệ mới xuất hiện với các vật liệu mới, chưa được nghiên cứu đầy đủ về nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến việc NLĐ gặp phải những rủi ro không xác định được trước.
Một nghiên cứu của Cơ quan Quản lý An toàn và Sức khỏe Anh(HSE) [3] năm 2017 cho thấy, mối nguy hiểm nghề nghiệp chính trong lĩnh vực tái chế cho các khu công nghiệp kinh tế tuần hoàn là xử lý thủ công nặng nhọc và tiếp xúc với khí dung sinh học, kim loại nặng và các chất ô nhiễm hữu cơ gây ra các triệu chứng về mắt, mũi, họng và hô hấp. Chức năng phổi có dấu hiệu bất thường, phản ứng quá mức của phế quản và tăng các dấu hiệu viêm trong dịch mũi, đờm hoặc huyết thanh gây ra bệnh hen suyễn và bệnh nhiễm trùng phổi (aspergillosis). Một nghiên cứu trong lĩnh vực tái chế kim loại, pin, cáp và dây điện cho thấy NLĐ phơi nhiễm với các hạt kim loại nặng, axit, kiềm, lithium ion, đặc biệt là chì, thủy ngân. Kết quả 75% NLĐ phải tiếp xúc với bụi từ quá trình phân loại chất thải trước khi tái chế. 45% NLĐ xuất hiện các triệu chứng như nhiễm trùng đường hô hấp trên hoặc viêm phế quản; 15% NLĐ bị nghi ngờ bị lao phổi,..
3. Các giải pháp kiểm soát rủi ro trong kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn
Theo nhiều cơ quan chuyên môn về ATVSLĐ các giải pháp được đề ra: dự đoán rủi ro ATVSLĐ trong quá trình lập kế hoạch và hệ thống quản lý rủi ro đặc biệt được coi là biện pháp chính cần thực hiện để bảo vệ sức khỏe và sự an toàn của NLĐ trong lĩnh vực KTX, trong đó quan trọng nhất là việc phải đánh giá và dự báo được các nguy cơ và mức độ rủi ro khi áp dụng các công nghệ xanh, công nghệ tuần hoàn trong KTX, KTTH.
Trên cơ sở đó, xin đề xuất một số giải pháp như sau:
- Nghiên cứu xây dựng các hướng dẫn ATVSLĐ khi triển khai KTX, KTTH qua tham khảo kinh nghiệm các nước;
- Nâng cao kỹ năng ATVSLĐ để biết tự bảo vệ mình của NLĐ trong KTX, KTTH;
- Các cơ quan nghiên cứu cần xúc tiến nghiên cứu các nguy cơ rủi ro do KTX, KTTH gây ra. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giám sát tai nạn trong sản xuất xanh dựa trên quá trình điều tra thu thập dữ liệu;
- Định kỳ tiến hành đánh giá rủi ro cho các khâu sản xuất của KTX, KTTH;
- Phát hành các trang tin dành cho các chuyên gia ATVSLĐ và các doanh nghiệp vừa và nhỏ với nội dung ATVSLĐ trong lĩnh vực KTX, KTTH;
- Đưa các kiến thức ATVSLĐ trong lĩnh vực KTX, KTTH vào trường học, các lớp tập huấn và chương trình đào tạo việc làm;
- Thông tin tuyên truyền rộng rãi về ATVSLĐ trong lĩnh vực KTX, KTTH.
4. KẾT LUẬN
Mặc dù ngày nay, trong chiến lược phát triển bền vững, người ta chú trọng nhiều đến nền KTX, KTTH, nhưng các vấn đề về ATVSLĐ cho NLĐ liên quan vẫn hiếm khi được giải quyết, còn chậm trễ trong việc đánh giá các rủi ro tiềm ẩn đối với NLĐ trong việc áp dụng các công nghệ xanh, công nghệ tuần hoàn mới.
Lực lượng lao động khỏe mạnh là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế – xã hội cũng như năng suất lao động. Bảo vệ sức khỏe NLĐ thông qua việc đảm bảo cho tất cả công việc, bao gồm các công việc trong nền KTX, KTTH, đều là công việc bền vững, an toàn và lành mạnh là điều cần thiết để cải thiện điều kiện làm việc cho NLĐ.
Hơn lúc nào hết, các viện nghiên cứu, trường đại học có liên quan cần phải đánh giá một cách có hệ thống các yếu tố nguy cơ rủi ro liên quan đến bất kỳ công nghệ mới, sản phẩm mới hoặc quy trình phát triển mới nào, không chỉ ở giai đoạn đầu mà trong suốt vòng đời của nó, bao gồm lập kế hoạch, sản xuất, vận chuyển, lắp đặt, vận hành, bảo trì, phá dỡ và thải bỏ, v.v.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Quyết định số 882/QĐ-TTg ngày 22/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030;
[2]. Annina Ropponen, Jari J Hakanen, Laura Seppänen (2019), Workers’ Health, Wellbeing, and Safety in the Digitalizing Platform Economy, Digital Work and the Platform Economy (pp.56-73), Finnish Institute of Occupational Health, November 2019
[3].”C J M Poole, S Basu (2017), Systematic Review: Occupational illness in the waste and recycling sector, Occupational Medicine 67(8), November 2017″
GS.TS. Lê Vân Trình,
Chủ tịch Hội KHKT An toàn vệ sinh lao động Việt Nam
Tạp chí Khoa học: An toàn – Sức khỏe và Môi trường lao động, số 2/2024