Đóng tàu là ngành công nghiệp quan trọng, cung cấp phương tiện phục vụ vận tải thông thương hàng hóa, khai thác tài nguyên, góp phần nâng cao tiềm lực quốc phòng của đất nước. Tuy nhiên, thống kê tai nạn lao động (TNLĐ) tại nhiều quốc gia trên thế giới cùng các nghiên cứu về điều kiện lao động – sức khỏe nghề nghiệp trong ngành tại Việt Nam đã cho thấy đóng tàu là ngành công nghiệp nặng tiềm ẩn nhiều yếu tố nguy hại tác động bất lợi tới an toàn và sức khỏe người lao động (NLĐ). Bài viết này trình bày một số mối nguy có mức rủi ro cao trong hoạt động đóng mới tàu biển tại một số cơ sở đóng tàu khu vực phía Bắc Việt Nam và đề xuất một số giải pháp kiểm soát giúp bảo vệ nguồn nhân lực của ngành:
Các mối nguy ở mức rủi ro cao trong hoạt động đóng mới tàu biển ở Việt Nam
Kết quả đánh giá rủi ro an toàn và sức khỏe nghề nghiệp của Nguyễn Hoàng Phương và cộng sự (VNNIOSH) tại 05 cơ sở đóng tàu đã cho thấy những mối nguy có mức rủi ro cao và rất cao, bao gồm:
- Ngã cao: Ngã từ độ cao 2m trở lên. NLĐ làm việc trên cao như giàn giáo, sàn lắp ráp, xe nâng người,… là các đối tượng chính chịu rủi ro từ mối nguy này.
- Ngã/vấp ngã/trượt ngã: Ngã từ độ cao dưới 2 m; vấp ngã do khu vực làm việc gồ gề, nhiều đồ vật vướng lối đi; trượt ngã do sàn trơn, ướt, dính dầu; trượt khi giẫm phải đồ vật trên sàn; trượt chân khi bước lên bệ khuôn; trượt ngã cầu thang… Nhiều trường hợp NLĐ bị vấp trong quá trình di chuyển dẫn tới hậu quả nghiêm trọng từ chấn thương tới gẫy xương.
- Thụt hố: Thụt chân vào các hố, miệng hầm khi đi lại trên tàu. Đây là mối nguy khi NLĐ đi lại, làm việc trên tàu, khi các lỗ, miệng hầm không được rào, chắn, cảnh báo. Báo cáo tai nạn cho thấy các vụ tai nạn bị thụt hố đều gây ra chấn thương nặng.
- Bị cắt/kẹp/đập vào bàn tay/ngón tay: Các mối nguy về cắt, kẹp, đập xảy ra trong rất nhiều trường hợp, từ móc cẩu, đưa nguyên liệu vào máy, vận chuyển trang thiết bị, nguyên liệu đến lắp thiết bị… dẫn tới gẫy, dập xương bàn tay, ngón tay.
- Dị vật bắn vào mắt: Mối nguy này chủ yếu xảy ra đối với các công việc cắt, mài, hàn, phun sơn, phun bi/hạt mài và thường dẫn tới hậu quả như bị bỏng, rách giác mạc, kết mạc. Phần lớn các tai nạn dị vật bắn vào mắt là do NLĐ không sử dụng kính bảo hộ trong quá trình làm việc.
- Vật rơi vào người: Đây là mối nguy có mức rủi ro cao khi NLĐ làm việc với thiết bị nâng hạ, máy hàn, máy mài, thanh vật liệu và tháo lắp giàn giáo. Vật rơi từ trên cao vào người và các bộ phận cơ thể có thể gây chấn thương vùng đầu, gẫy xương bàn chân, ngón chân.
- Bị đè bởi vật nặng: Vật nặng đè vào các bộ phận (trừ bàn tay, ngón tay) hoặc toàn bộ cơ thể (ống lăn đè vào chân; thanh giằng đè vào chân; cửa đổ đè vào người…) trong quá trình thao tác, vận chuyển có thể gây chấn thương dẫn tới NLĐ phải nghỉ việc để điều trị y tế hoặc gây tử vong.
- Điện giật: Mối nguy này phát sinh chủ yếu trong quá trình NLĐ làm việc với máy hàn, máy mài và một số thiết bị sử dụng điện khác. Do các thiết bị điện trong ngành đóng tàu đều được trang bị cơ cấu ngắt điện an toàn và định kỳ kiểm định nên nguy cơ xảy ra tai nạn điện giật thường chỉ ở mức trung bình tới thấp. Tuy nhiên, trong số các cơ sở được khảo sát, đã từng xảy ra một ca tai nạn điện giật do NLĐ vận hành máy mài không tuân thủ quy trình an toàn, do đó rủi ro điện giật đối với công việc hàn, mài được đánh giá ở mức cao.
- Cháy: Đây là mối nguy đặc thù của các công việc phát sinh nhiệt (hàn, mài, cắt) khi làm việc gần vật liệu dễ bắt cháy và công việc sử dụng khí gas, oxy như cắt hơi, hỏa công.
- Tai nạn do phương tiện tại nơi làm việc: Tai nạn do các phương tiện chuyên chở như xe nâng, cẩu, xe tải,… bao gồm cả phương tiện di chuyển trong khuôn viên nhà máy như xe đạp, xe máy, ví dụ bị kẹp bởi bánh cẩu, bị ngã xe đạp, xe máy trong khuôn viên nhà máy,…
Giải pháp
Đối với người lao động: kết quả nghiên cứu đã cho thấy NLĐ ngành đóng tàu còn chủ quan với sự an toàn và sức khỏe của chính bản thân và những người xung quanh. Qua khảo sát thực tế, vẫn còn bộ phận NLĐ không sử dụng đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân được cấp phát, như không sử dụng mũ bảo hộ lao động, nút tai chống ồn, không đeo dây đai an toàn hoặc có đeo dây an toàn nhưng không sử dụng khi làm việc ở độ cao trên 2 m, không đeo kính bảo hộ lao động khi hỏa công hay mài đường hàn; không sử dụng tay vịn khi lên xuống cầu thang; tháo dỡ giàn giáo trong khi vẫn có NLĐ đang làm việc bên trên;… Trong trường hợp này, việc xây dựng ý thức tự giác và thói quen an toàn là hết sức quan trọng để NLĐ có thể tự bảo vệ bản thân và người xung quanh khỏi TNLĐ và bệnh nghề nghiệp (BNN).
Đối với doanh nghiệp: cần thực hiện đánh giá rủi ro hàng năm và đánh giá hiệu quả của các giải pháp kiểm soát đang thực hiện trong việc hạ mức phân hạng rủi ro, với mục tiêu cải tiến liên tục hướng tới không TNLĐ và BNN. Doanh nghiệp cần làm tốt hơn công tác thống kê, điều tra và lưu trữ thông tin sự cố TNLĐ, bao gồm cả các sự cố suýt xảy ra tai nạn, BNN và bệnh liên quan tới nghề nghiệp, làm căn cứ đánh giá rủi ro ATVSLĐ một cách chính xác, khách quan và xây dựng giải pháp kiểm soát giảm thiểu đúng trọng tâm. Bên cạnh các giải pháp về kỹ thuật, công nghệ và ecgonomi, doanh nghiệp cần tăng cường giám sát tuân thủ, giáo dục ý thức và khuyến khích sự tham gia của NLĐ trong đánh giá giảm thiểu rủi ro; tổ chức các hoạt động thông tin và đào tạo nhận diện, phòng ngừa rủi ro cho NLĐ để các nội dung này trở thành thói quen, phản xạ trong quá trình làm việc; và xây dựng văn hóa an toàn tại nơi làm việc.
Nguyễn Hoàng Phương
Trạm Quan trắc và Phân tích Môi trường lao động